Nhìn lại áp trần lãi vay theo Nghị định 20: Chưa thực sự phát huy hiệu quả như mong muốn

Thứ ba, 11/12/2018 16:49
(ĐCSVN) - Đầu năm 2017, Chính phủ ban hành Nghị định 20/2017/NĐ-CP (Nghị định 20) quy định về quản lý thuế đối với doanh nghiệp có giao dịch liên kết. Đây được cho là dấu mốc quan trọng trong hệ thống quy định pháp luật về giao dịch liên kết.

Nghị định 20 được Chính phủ Việt Nam ban hành ngày 24/2/2017, có hiệu lực từ ngày 1/5/2017 đưa Việt Nam tiến gần hơn đến các chuẩn mực quốc tế về gia tăng tính minh bạch và nỗ lực chống tránh thuế. Dù được kỳ vọng sẽ góp phần chống chuyển giá đối với doanh nghiệp FDI, song thực tế, doanh nghiệp nội lại là đối tượng gặp vướng mắc nhiều nhất, thậm chí là giảm lợi thế cạnh tranh.

Cần cân nhắc lại cho hợp lý hơn (Ảnh tư liệu)

Liệu có làm khó cho chính “sân nhà”?

Nghị định 20 có hiệu lực từ 1/5/2017 được đánh giá đã "điểm trúng huyệt" các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) liên tục mở rộng kinh doanh nhưng luôn báo lỗ. Mục tiêu của Nghị định là chống thất thu thuế ở Việt Nam do tác động của chuyển giá giữa các quốc gia của doanh nghiệp FDI, nhưng khoản 3 điều 8 của Nghị định lại được cho là có ảnh hưởng nhiều đến doanh nghiệp trong nước, đặc biệt là các tập đoàn hoạt động theo mô hình mẹ - con.

Không ít chuyên gia cho rằng, Việt Nam đang bước vào cuộc chơi toàn cầu nên không có lý do gì để doanh nghiệp Việt đứng ngoài cuộc. Nghị định 20 không những chống chuyển giá, hạn chế xói mòn nguồn thu mà còn giúp lành mạnh nền tài chính quốc gia, hạn chế các doanh nghiệp vốn mỏng, chủ yếu đầu tư dựa vào vốn vay ngân hàng.

Đặc biệt, với các doanh nghiệp bất động sản - một trong những nhóm ngành cần nhiều vốn vay nhất trong hệ kinh tế thì có thể thấy quy định trên đang vừa làm khó và làm khổ họ. Thực tế, các công ty thuộc nhóm ngành này thường sẽ hình thành mô hình công ty mẹ con, hay công ty liên kết để triển khai dự án cho tập trung và chuyên nghiệp. Với hai yếu tố này (thiếu vốn, hoạt động mô hình mẹ – con), các doanh nghiệp bất động sản sẽ gặp khó khăn kép với Nghị định 20.

Theo quy định của Luật Đầu tư, vốn đầu tư của một dự án bao gồm vốn góp của nhà đầu tư và vốn huy động. Còn theo quy định Nghị định 43/2014/NĐ-CP, doanh nghiệp bất động sản có vốn thuộc sở hữu của mình để thực hiện dự án không thấp hơn 20% tổng mức đầu tư đối với dự án có quy mô sử dụng đất dưới 20ha; không thấp hơn 15% tổng mức đầu tư đối với dự án có quy mô sử dụng đất từ 20ha trở lên. Đồng thời, các doanh nghiệp có khả năng huy động vốn để thực hiện dự án từ các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và các tổ chức, cá nhân khác.

Như vậy, đối với một dự án đầu tư có sử dụng đất, ngoài vốn tự có, doanh nghiệp có quyền vay hoặc thực hiện các hình thức huy động vốn khác để triển khai dự án với tỷ lệ là từ 80 đến 85%.

Điều này cũng đồng nghĩa là chi phí lãi vay trên tổng lợi nhuận tại các doanh nghiệp bất động sản hầu hết cao hơn tỷ lệ chi phí lãi vay theo Nghị định 20. Nếu áp dụng quy định của Nghị định này, doanh nghiệp bất động sản khó triển khai dự án quy mô lớn.

Các chuyên gia kinh tế cho rằng, Nghị định 20 đặt tỷ lệ khống chế 20% là chưa phù hợp với bối cảnh của Việt Nam, dù rằng quy định này phù hợp với thông lệ quốc tế. Nói một cách khách quan thì tiêu chí đánh giá công bằng còn khá khập khiễng. Bởi rõ ràng, doanh nghiệp nước ngoài khi tham gia đầu tư Việt Nam đều là những tên tuổi lớn, có vốn lớn, việc vay vốn liên kết không phải chịu “áp lực”. Trong khi đó, phần lớn doanh nghiệp Việt là doanh nghiệp mới, vốn thấp, cần vay để phát triển sản xuất kinh doanh (vay cổ đông, vay ngân hàng...), việc không chế lãi vay với các bên liên kết, trong khi quy định chưa khống chế vốn vay, dẫn tới khó khăn cho doanh Việt Nam.

Bên cạnh đó, quy định khống chế lãi tiền vay được trừ thu nhập chịu thuế tại Nghị định này còn phát sinh việc đánh thuế trùng đối với cùng một giao dịch kinh doanh - lãi tiền vay. Chẳng hạn, bên cho vay phải nộp thuế thu nhập doanh nghiệp đối với thu nhập từ lãi tiền vay, bên đi vay phải nộp thuế thu nhập doanh nghiệp đối với phần chi phí tiền vay vượt mức khống chế.

Đặc biệt, trong bối cảnh từ năm 2016 đến nay đã có hàng ngàn doanh nghiệp khởi nghiệp. Tuy nhiên, một doanh nghiệp khởi nghiệp luôn vấp phải nhiều khó khăn, trong đó quan trọng là vốn. Nếu những ý tưởng khởi nghiệp “sống được” và trở thành thành viên của các tập đoàn lớn trong nước sau khi mua bán, sáp nhập thì có nhiều cơ hội để phát triển. Việc hạn chế trần chi phí lãi vay theo Nghị định 20 về mục đích là hướng đến ngăn chặn các gian lận chuyển giá và trốn thuế của các doanh nghiệp FDI nhưng lại đang cản trở khá lớn đến việc huy động nguồn vốn đầu tư của các doanh nghiệp lớn đến cộng đồng khởi nghiệp.

Dưới góc nhìn của các luật sư, phạm vi ngưỡng 20% đang không hợp lý với trường hợp: doanh nghiệp không có mối quan hệ công ty mẹ - con trong ngoài nước, không lách thuế hay chuyển giá mà hoàn toàn là chi phí hợp pháp, hợp lệ phải huy động, phải vay vốn một cách bình thường. Do đó, quy định cần nêu rõ trường hợp nào hợp pháp thì vẫn được pháp luật cho vay cao hơn và ngược lại. Do đó, trách nhiệm quản lý kiểm soát doanh nghiệp đang trốn thuế không thuộc về những doanh nghiệp không trốn thuế.

Với những doanh nghiệp không lách thuế, chuyển giá, không hoạt động công ty liên kết mô hình mẹ con nước ngoài có cần áp trần lãi vay? (Ảnh minh họa. Nguồn: Tài chính Ngân hàng)

Trong khi doanh nghiệp FDI vẫn không hề có ảnh hưởng

Theo báo cáo của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), mỗi năm có khoảng từ 40 - 50% doanh nghiệp FDI kê khai lỗ, trong đó, có rất nhiều doanh nghiệp lỗ liên tục trong nhiều năm, thậm chí có doanh nghiệp lỗ lũy kế đến mức âm vốn chủ sở hữu nhưng vẫn tiếp tục hoạt động bình thường, chưa kể còn mở rộng quy mô kinh doanh.

Một số địa phương thu hút nhiều doanh nghiệp FDI như TP.HCM, Bình Dương, tỷ lệ doanh nghiệp FDI kê khai lỗ lên đến 50 - 60%. Trong đó, có nhiều doanh nghiệp kê khai lỗ trong nhiều năm. Theo báo cáo gần đây nhất vào đầu năm 2018 của VCCI, có đến 37,9% doanh nghiệp FDI báo cáo lỗ trong năm 2017.

Tình trạng kê khai lỗ không cá biệt trong bất kỳ ngành nghề nào nhưng thường phổ biến ở các ngành nghề như chế biến chế tạo, sản xuất hàng may mặc, da giầy, sản xuất các mặt hàng gia dụng, bán lẻ, nước giải khát…

Theo thông tin của Cục thuế TP.HCM, các doanh nghiệp FDI trong lĩnh vực siêu thị, bán lẻ, nước giải khát đứng đầu danh sách các doanh nghiệp luôn báo lỗ. Một số báo cáo khác cho thấy, có đến 90% số doanh nghiệp FDI hoạt động trong lĩnh vực may mặc ở TP.HCM có báo cáo tài chính lỗ trong khi hầu hết các doanh nghiệp nội địa hoạt động trong cùng ngành lại có lãi.

Điều này mâu thuẫn với thực tế khi xung quanh các doanh nghiệp nội địa thường được đánh giá có năng lực và lợi thế cạnh tranh thấp hơn nhiều so với các doanh nghiệp FDI cùng ngành. Đáng chú ý là mặc dù lỗ, thậm chí lỗ lũy kế đến mức âm vốn nhưng không ít doanh nghiệp FDI vẫn tiếp tục mở rộng quy mô kinh doanh thay vì phá sản, đóng cửa sản xuất?

Theo các chuyên gia về thuế, thủ đoạn của các công ty đa quốc gia là lợi dụng sự khác biệt trong chính sách thuế giữa các quốc gia, vùng lãnh thổ và lợi dụng chế độ ưu đãi thuế của các quốc gia, vùng, miền để xây dựng và áp dụng một chính sách về giá giao dịch nội bộ trong tập đoàn. Đầu tiên, doanh nghiệp FDI thành lập công ty vỏ bọc, công ty không có hoạt động thực chất tại nơi này để chuyển giá, dẫn tới nguy cơ suy giảm nguồn thu của quốc gia nơi tạo ra lợi nhuận. Đây là thách thức lớn của các quốc gia cũng như ở Việt Nam.

Báo cáo tổng hợp của cơ quan thuế trong khoảng 5 đến 6 năm qua cho thấy đã có khoảng 1,5 tỷ USD số tiền giảm lỗ và số truy thu thuế là 10.000 tỷ đồng. Nhưng nhiều chuyên gia lại đặt câu hỏi liệu như vậy đã đủ chưa khi mà mỗi năm cơ quan chức năng chỉ thanh tra số ít doanh nghiệp. Nếu tăng số lượng doanh nghiệp bị thanh tra thì số tiền giảm lỗ và truy thu thuế có thể sẽ còn lớn hơn rất nhiều.

Đó là những minh chứng cho thấy, ngành Thuế nước ta vẫn còn nhiều “lỗ hổng” để các doanh nghiệp nước ngoài tận dụng. Cùng với đó là câu chuyện không ít doanh nghiệp FDI đang có dấu hiệu chuyển giá mà ngành Thuế vẫn chưa có hướng xử lý. Phải chăng, nên khoanh vùng đối tượng để thiết lập một thể chế quản lý khách quan công bằng và đảm bảo được nguồn thu ngân sách chính xác đến từng doanh nghiệp?

Và thiết nghĩ, việc vội vàng áp trần lãi vay theo Nghị định 20 cho các doanh nghiệp có giao dịch liên kết vẫn chưa giáng được "đòn chí mạng" vào doanh nghiệp ngoại chuyên chuyển giá, mà chỉ làm khó người nhà – doanh nghiệp nội mà thôi.

Nhóm doanh nghiệp bất động sản vừa gặp khó vừa gặp khổ với mức áp dụng này (Ảnh: HNV)

Có giải pháp nào tốt hơn?

Kể từ khi chính thức đi vào thực tiễn, Nghị định 20 được ví như chiếc “vòng kim cô” để ngăn chặn nạn chuyển giá tại các công ty đa quốc gia. Tuy nhiên, sau hơn 1 năm có hiệu lực, không ít doanh nghiệp nội lại bị vạ lây từ Nghị định này, đặc biệt là tác động từ khoản 3, điều 8 liên quan tới quy định áp trần lãi vay 20%.

Trước những bất cập lớn từ Nghị định 20 dẫn tới việc bội tăng tiền thuế cho mô hình công ty mẹ - con, nhiều chuyên gia cho rằng, Việt Nam nên áp dụng phương án khống chế chi phí lãi vay bằng lãi vay ròng, không nhất thiết phải áp chi phí lãi vay thuần như hiện tại. Việc áp dụng cách tính này sẽ giúp các doanh nghiệp tránh rơi vào tình trạng nộp thuế trùng 2 lần đối với khoản chi phí lãi vay. Đặc biệt, đối với các công ty đứng ra làm trung gian cho vay vốn, giải pháp này không làm giảm khả năng sử dụng, quản lý cũng như điều tiết vốn vay.

Ở góc nhìn khác, một số luật sư đề nghị cần phải sửa đổi đối tượng áp dụng phần chi phí lãi vay phát sinh không vượt quá 20% với hai đối tượng là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có quan hệ liên kết qua biên giới và các doanh nghiệp được thành lập theo quy định của pháp luật Việt Nam có giao dịch về vay vốn với các bên có quan hệ liên kết có mức thuế thu nhập doanh nghiệp khác nhau, chứ không khống chế đại trà như Nghị định 20.

Bản thân cộng đồng doanh nghiệp cũng mong muốn, Nghị định 20 có thể điều chỉnh theo hướng bù trừ thu nhập và chi phí lãi vay, lãi suất biến động, tỷ lệ nhóm; xem xét đặc thù cho các doanh nghiệp mới hoạt động/đầu tư mở rộng; xem xét tính đặc thù của tập đoàn là tổng công ty, mô hình hoạt động công ty mẹ - con... Tuy nhiên, việc điều chỉnh mức khống chế cần phải được khảo sát và nghiên cứu thêm để phù hợp điều kiện cũng như các quy định khác tại Việt Nam./.

Hà Anh

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM

Ý kiến bình luận
Họ và tên
Email
Lời bình

/

Xác thực